Trầm cảm: Nguyên nhân, Dấu hiệu và những điều bạn cần biết

Theo như ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tính tới năm 2020, trầm cảm là một căn bệnh thứ hai gây hại đến sức khỏe của con người chỉ đứng sau tim mạch. Trong đó bệnh trầm cảm ở Việt Nam hiện nay đang có chiều hướng  tăng đặc biệt là trong giới trẻ.

Một thống kê thấy rằng có đến 6% dân số tại TP.HCM mắc bệnh này. Nếu trước kia những người mắc bệnh này đa phần nằm trong độ tuổi từ 60 – 65 tuổi, thì ngày nay trầm cảm đang có xu hướng trẻ hóa với độ tuổi khoảng từ 15 – 27 tuổi.

Nữ giới tỷ lệ bị trầm cảm nhiều hơn nam giới. Trung bình cứ khoảng 2 bệnh nhân nữ thì mới có 1 bệnh nhân nam mắc bệnh này. Tại những cơ sở y tế chuyên khoa, số lượng bệnh nhân đến thăm khám những bệnh lý liên quan đến trầm cảm tăng 20 – 30% mỗi năm.

Trầm cảm cũng là một trong số các nguyên nhân làm gia tăng số người tự tử tại Việt Nam. Ước tính trung bình mỗi năm có hàng chục ngàn người tự tử vì căn bệnh này, gấp 2,5 lần so với số người chết do tai nạn giao thông.

Trầm cảm là gì?

Bệnh trầm cảm hay rối loạn trầm cảm (Depression) là một loại bệnh rối loạn tâm trạng thường gặp. Ngoài ra, còn là một chứng bệnh về tâm thần học đến từ sự rối loạn hoạt động của não bộ gây ra. Những biến chứng bất thường trong tâm lý đã tạo ra rất nhiều biến đổi bất thường trong suy nghĩ, hành vi và biểu hiện. #

Ở các trường hợp nặng, bệnh nhân có thể có ý nghĩ hay hành vi tự hủy hoại bản thân, tự sát. Khoảng  chục năm gần đây, tỷ lệ người mắc chứng này đang tăng lên đáng kể với tỷ lệ cao hơn với nữ giới (gấp đôi nam giới). Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khoảng tới 5% dân số trên thế giới gặp phải chứng rối loạn trầm cảm.

Không chỉ dẫn đến làm tăng nguy tự sát, chứng trầm cảm còn có ảnh hưởng đến hoạt động học tập và lao động. Người bệnh sẽ dần dần tách rời ra khỏi tập thể và khiến chất lượng cuộc sống giảm sút. Ngoài ra, chứng trầm cảm còn có thể làm tăng gánh nặng lên gia đình và xã hội. Vì vậy, việc phát hiện bệnh sớm là một vấn đề hết sức cần thiết để có thể tiến hành thăm khám và được điều trị kịp thời.

Nguyên nhân gây bệnh trầm cảm

Nguyên nhân gây bệnh trầm cảm
Nguyên nhân gây bệnh trầm cảm

Trầm cảm xuất phát từ một số nhóm nguyên nhân có thể kể đến như sau:

  • Sang chấn tâm lý là một Nguyên nhân gây trầm cảm phổ biến nhất và hàng loạt những rối loạn tâm thần khác. Sang chấn tâm lý (stress) có thể bắt nguồn từ các yếu tố như: Mâu thuẫn với gia đình, bạn bè, khó khăn trong công việc, Trầm cảm sau sinh do stress cường độ cao , Bắt nguồn từ các bệnh nặng, nan y như ung thư, HIV-AIDS,…
    Tuy nhiên, stress không phải là một nguyên nhân hoàn toàn gây ra trầm cảm. Bởi tình trạng này là một phản ứng thông thường của cơ thể sau khi trải qua các biến cố như thiên tai, làm việc với cường độ cao, người thân qua đời, quan hệ vợ chồng có quá nhiều mâu thuẫn,… Vì vậy hiện nay, stress được xem là một yếu tố góp thêm làm bùng phát trầm cảm khi có các yếu tố có sẵn như rối loạn tâm thần tiềm ẩn trước đó hay stress trường diễn,…
  • Do các bệnh thực thể ở não, các bệnh lý hay trấn thương tác động trực tiếp tới não bộ như viêm não, u não, chấn thương sọ não,… Các tổn thương tại cấu trúc não có thể làm giảm ngưỡng chịu đựng stress. Do đó, chỉ với một tác động nho  nhỏ cũng có thể gây ra trầm cảm và những rối loạn tâm thần thường gặp khác.
    Đối với trường hợp này thì việc xác định nguyên nhân là rất cần thiết. Bởi nếu xác định đúng thì bệnh có thể được điều trị triệt để, tránh các ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và giảm gánh nặng lên gia đình và xã hội.
  • Dùng chất tác động tâm thần hay chất gây nghiện như thuốc lá, rượu bia, thuốc lắc cà Heroin. Các chất này tác động tới  hệ thần kinh trung ương nhằm tạo ra những cảm giác sảng khoái, kích thích và hưng phấn. Tuy nhiên sau đó thì hệ thần kinh bị ức chế dẫn đến trạng thái trầm cảm với các biểu hiện như  mệt mỏi, uể oải, buồn bã và chán nản.
    Để giảm cảm giác buồn chán thì nhiều người tiếp tục uống rượu và dùng chất kích thích. Tuy nhiên, cảm giác sảng khoái sẽ chỉ xảy ra trong thời gian ngắn và để lại hậu quả là khiến tâm trạng càng buồn rầu cùng chán nản dần dần hình thành nên bệnh rối loạn trầm cảm.
  • Nguyên nhân nội sinh được xác định khi đã được loại trừ hoàn toàn những nguyên nhân kể trên. Nguyên nhân nội sinh đề cập đến một bệnh trầm cảm xảy ra do rối loạn hoạt động của những chất dẫn truyền thần kinh có trong não bộ như Serotonin, Noradrenaline, …
    Khác với các nguyên nhân thông thường, trầm cảm do nguyên nhân này thường sẽ tiến triển nặng, bệnh nhân sẽ dễ bị hoang tưởng và có ý tưởng hay hành vi tự sát. Trầm cảm từ  nguyên nhân nội sinh rất khó điều trị dứt điểm và có  tỷ lệ tái phát cao

Trầm cảm nội sinh

Trầm cảm nội sinh là một trong những hội chứng rối loạn trầm cảm khá đặc trưng, còn được biết đến với tên gọi trầm cảm không rõ nguyên nhân. Những đối tượng  mắc bệnh sẽ có biểu hiện buồn bã, chán nản và  u sầu, tuyệt vọng trong một khoảng thời gian dài. Khi những cảm xúc tiêu cực thường xuyên xuất hiện và không biết rõ được nguyên nhân sẽ làm  cho người bệnh bị ảnh hưởng nhiều đến tâm trạng, hành vi, suy nghĩ và gây tác động xấu đến sức khỏe, sinh hoạt hàng ngày.

Dấu hiệu trầm cảm như thế nào?

Dấu hiệu người mắc bệnh trầm cảm
Dấu hiệu người mắc bệnh trầm cảm

Mất hứng thú hoặc những sở thích trước đây: cảm giác mệt mỏi, nặng nề không muốn làm việc, đi đứng chậm chạp và luôn luôn cảm thấy mình không có đủ sức khỏe để làm việc dù là việc nhẹ và không quan tâm đến xung quanh kể cả con cái đang vui chơi cũng có thể không để ý quan tâm. Bệnh nhân tự cho rằng bản thân họ đã mất hết những sở thích vốn có trước đây.

Khí sắc trầm buồn: sẽ được biểu hiện qua nét mặt của bệnh nhân:rầu rĩ,  buồn bã, ủ rũ nét mắt rất đơn điệu, giảm hay mất các nếp nhăn. Tình trạng khí sắc giảm rất bền vững vì bệnh nhân chán nản, bi quan, buồn bã, mất hết niềm tin trong cuộc sống và cả ham muốn tình dục. Nam nữ có biểu hiện suy giảm tình dục như lãnh cảm tại nữ hay rối loạn cương dương ở nam giới

Rối loạn giấc ngủ: mất ngủ  là một triệu chứng hay gặp nhất chiếm 95% số trường hợp các bệnh nhân. Bệnh nhân cảm thấy trằn trọc khó đi sâu vào giấc ngủ mặc dù đôi khi cảm thấy rất buồn ngủ tuy nhiên lại không thể ngủ hay việc  thức dậy sớm hơn bình thường. bệnh nhân được coi là mất ngủ khi giấc ngủ  mỗi ngày ít hơn 2 tiếng so với bình thường. Bệnh nhân có thể thức trắng cả ngày và đêm trong nhiều ngày dẫn đến suy nhược cơ thể.

Mất cảm giác ngon miệng và gầy sút cân hay một số ít có biểu hiện tăng cân: bệnh nhân có thể mất cảm giác ngon miệng và không muốn ăn thậm chí có những trường hợp nhịn ăn hoàn toàn dẫn đến việc gầy sút cân. Một số ít trường hợp lại có cảm giác thèm ăn, ăn nhiều hơn bình thường dẫn đến việc tăng cân

Cảm giác vô dụng và tội lỗi: luôn có ý nghĩ tiêu cực về bản thân cùng cảm giác tuyệt vọng không có lối thoát, không còn niềm tin vào bản thân cùng tương lai. Tự cảm thấy có lỗi với những người thân và thua kém người khác, trở nên vô dụng.

Mệt mỏi, giảm tập trung và giảm sút năng lượng: hay than phiền mệt mỏi mà lại không có một nguyên nhân nào, giảm khả năng tập trung do đó hiệu quả công việc giảm sút. Cảm giác mệt mỏi sẽ thường nặng hơn vào buổi sáng. Không còn sự  hứng thú với việc gì. Bệnh nhân sẽ mệt mỏi không muốn làm gì đối với các  trường hợp nặng còn không thể thực hiện được những công việc hàng ngày như: nấu cơm, đi ra chợ, giặt quần áo

Biểu hiện sinh lý như nhức đầu, hồi hộp trống ngực, mỏi vai gáy, đau nhức tay chân

Hình thức bên ngoài như ăn mặc lôi thôi lếch thếch và vệ sinh thân thể kém, có cử chỉ chậm chạp hoặc giận dữ vô cớ, với giọng nói trầm buồn đơn điệu gợi ý về bệnh trầm cảm.
Cảm giác lo lắng vô cớ hoặc ám ảnh bệnh tật vô lý, dễ nổi giận với mọi người xung quanh, có các cơn sợ hãi, ngại giao tiếp và ít quan tâm đến người khác, đòi hỏi cao với những người khác

Có ý định hay hành vi tự sát: hầu hết bệnh nhân trầm cảm đều có thể có ý nghĩ về cái chết nặng hơn là việc có ý định tự sát. Cảm giác tuyệt vọng và  không tìm được lối thoát. Họ bị ám ảnh về bệnh tật, chán nản và  dễ bị tổn thương dần dần tự nghĩ rằng chết đi cho đỡ đau khổ.

Dấu hiệu trầm cảm nặng có thể như Tâm trạng buồn bã, có hay không kèm theo triệu chứng hoặc khóc, bi quan trước mọi việc, giảm hứng thú trong mọi việc,  bao gồm những hoạt động nằm trong sở thích trước đây, Không có động lực, trong trường hợp nặng có thể có ý nghĩ hoặc hành vi tự tử.

Trầm cảm có nguy hiểm không?

Trầm cảm và những rối loạn tâm thần có khuynh hướng tăng mạnh trong  chục năm gần đây. Ngoài ra, số lượng ca tử vong vì rối loạn trầm cảm cũng tăng lên không ngừng. Ở nước ta, có tới  khoảng 31% trường hợp tử vong có liên quan tới hội chứng này cùng một số dạng rối loạn cảm xúc khác.

Trầm cảm khá nguy hiểm do không chỉ làm tăng nguy cơ tự sát (tử vong) mà bệnh trầm cảm còn khiến người bệnh tự tách biệt với mọi người xung quanh và giảm hiệu suất lao động, học tập. Theo thời gian, bệnh nhân sẽ phải đối mặt với những ám ảnh tinh thần nghiêm trọng dẫn đến, suy nhược, mệt mỏi, mất ngủ và giảm chất lượng cuộc sống. Những tác động này dẫn tới tăng nguy cơ tử vong gián tiếp – đặc biệt là với bệnh nhân cao tuổi có các bệnh lý nền như  tim mạch, tiểu đường,rối loạn tuyến giáp,…

Trầm cảm còn làm gia tăng tỷ lệ lạm dụng rượu và những chất kích thích. Ngoài các thiệt hại cho chính cá nhân người bệnh, thì bệnh lý này còn ảnh hưởng đến gia đình và có thể  làm tăng gánh nặng cho xã hội. Chính vì các tác hại khôn lường, rối loạn trầm cảm đang rất được quan tâm, nghiên cứu rộng rãi.

Bệnh trầm cảm có mấy giai đoan

Mức độ trầm cảm ở mỗi giai đoạn thường có các biểu hiện nặng nhẹ khác nhau, việc nhận biết được các giai đoạn của bệnh sẽ giúp mang lại cho bạn một cách nhìn khái quát hơn về căn bệnh trầm cảm cũng như có phương án điều trị bệnh kịp thời.

Trầm cảm giai đoạn 1

Người bệnh khi tại giai đoạn này thường có những triệu chứng:

  • Khí sắc trầm, hay tức giận và khó chịu.
  • Mất quan tâm và giảm sự hứng thú.
  • Mệt mỏi nhiều, thiếu sức sống.
  • Thiếu động lực, khó tiếp tục công việc hàng ngày
  • Hoạt động xã hội giảm dần, không muốn giao tiếp với người khác.
  • Thay đổi cảm giác thèm ăn, cân nặng, buồn ngủ hoặc mất ngủ.

Ít nhất phải có từ hai trong số triệu chứng phổ biến ở trên để có thể chẩn đoán và xác định bệnh. Thời gian có những triệu chứng tối thiểu là khoảng 2 tuần và  bệnh nhân có thể không có những triệu chứng cơ thể hay là có nhưng nhẹ.

Trầm cảm giai đoạn 2

Giai đoạn trầm cảm cấp độ 2 là một giai đoạn có mức độ vừa có những triệu chứng tương tự như trầm cảm mức độ nhẹ tuy nhiên mức độ nặng hơn trầm cảm nhẹ một chút

Dấu hiệu trầm cảm giai đoạn 2 là Người bệnh  ở giai đoạn này có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng chủ yếu đặc trưng với giai đoạn nhẹ, bên cạnh đó  có thêm ít nhất 3 hoặc 4 triệu chứng phổ biến khác.

Thời gian xuất hiện các triệu chứng tối thiểu là trong khoảng 2 tuần và có khá nhiều khó khăn trong hoạt động xã hội, nghề nghiệp hay công việc gia đình và có thể không có hoặc có từ 2-3 triệu chứng cơ thể tại mức độ trầm trọng vừa phải.

Giai đoạn trầm cảm vừa phải có thể sẽ gây ra một số ảnh hưởng như: Nhạy cảm, Giảm khả năng làm việc, Lo lắng thái quá, Dễ bị tổn thương lòng tự trọng, Cảm thấy bản thân vô giá trị…

Giai đoạn trầm cảm vừa khác so với giai đoạn trầm cảm nhẹ là một số các triệu chứng của trầm cảm vừa gây ảnh hưởng tới  công việc, sinh hoạt và các mối quan hệ trong xã hội.
Sự khác biệt lớn nhất với trầm cảm nhẹ là những triệu chứng vừa đủ mức nghiêm trọng để gây ra những vấn đề trong công việc cùng khả năng chăm sóc gia đình và giao tiếp xã hội. Vì thế mà vừa cũng dễ chẩn đoán hơn.

Trầm cảm giai đoạn 3

Trầm cảm nặng không có triệu chứng rối loạn thần

Ở giai đoạn trầm cảm nặng khi có những triệu chứng loạn thần, tức là bệnh nhân đã có những  triệu chứng nghiêm trọng và đáng chú ý, thậm chí người thân của bệnh nhân cũng sẽ có thể phát hiện ra. Người bệnh tại giai đoạn này thường có biểu hiện: U sầu buồn bã kéo dài, Cảm thấy mình vô dụng, Có hành vi làm tổn thương chính bản thân và những người xung quanh, Tâm thần chậm chạp, dễ bị kích động, Tự thấy mình tội lỗi, xấu hổ, Mất tự tin, Nghiêm trọng hơn cả, người bệnh luôn nghĩ đến cái chết và có những hành vi muốn tự tử…

Trầm cảm giai đoạn cuối

Trầm cảm nặng có các triệu chứng rối loạn thần

Người bệnh trầm cảm nặng có kèm theo các triệu chứng rối loạn tâm thần tức là bệnh nhân luôn  có những hoang tưởng, ảo giác hay sững sờ. Một số hoang tưởng thường xuất hiện như tưởng tượng ra có tai họa sắp xảy ra,  Ảo giác nghe thấy tiếng nói, âm thanh lạ, …Hoặc bao gồm các ý tưởng tội lỗi, thấp hèn và trách nhiệm bệnh nhân phải gánh chịu. Những ảo thanh hay ảo khướu thường là hoặc mùi rác mục hoặc thịt thối rữa, giọng kết tội hoặc phỉ báng

Khi người bệnh đã bước đến giai đoạn nặng và có kèm theo trạng thái rối loạn tâm thần cần đòi hỏi phải có sự can thiệp y tế càng sớm càng tốt. Khi có các biểu hiện loạn thần hay hành vi tự làm tổn thương cùng  ý nghĩ tự sát người bệnh cần được thăm khám với các bác sỹ chuyên khoa sức khỏe tâm thần càng sớm càng tốt. Bác sỹ có thể sẽ dùng thuốc hoặc phối hợp với tâm lý trị liệu và sốc điện để giúp cho bệnh nhân thoát khỏi tình trạng nguy hiểm.

Trầm cảm nặng có chữa được không

​Theo  chuyên gia tâm lý của Trung tâm Tâm lý trị liệu NHC Việt Nam thì bệnh trầm cảm hoàn toàn có thể chữa khỏi được.  Điều trị trầm cảm vừa và nặng thì khi điều trị trầm cảm  ở 2 giai đoạn này bắt buộc phải được bác sĩ tâm lý có chuyên môn thực hiện. Bác sĩ sẽ đưa ra một  phác đồ điều trị phù hợp sau khi chẩn đoán chính xác mức độ nặng hay nhẹ của bệnh. Đồng thời, việc điều trị lúc này sẽ phức tạp hơn, kết hợp sử dụng nhiều phương pháp như trị liệu tâm lý, thiền định, yoga, sử dụng thuốc Tây y kết hợp Đông y, thay đổi thói quen sống lành mạnh và chế độ ăn uống khoa học… Thậm chí, trong nhiều trường hợp bệnh nặng sẽ có thể bắt buộc phải nhập viện để theo dõi điều trị.

Ngoài ra còn có một số các dạng trầm cảm khác nữa, có thể được gọi là trầm cảm ẩn. Đó là những triệu chứng chính của trầm cảm không rõ ràng, nhưng có các triệu chứng cụt và rất khó trong chẩn đoán như lo buồn, căng thẳng, chán nản và thêm những triệu chứng đau hay mệt mỏi dai dẳng có nguyên nhân thực tổn.

Kiểm tra bệnh trầm cảm

Test kiểm tra trầm cảm

Không có sự  phát hiện trong phòng thí nghiệm là đặc trưng bệnh của rối loạn trầm cảm. Những đánh giá loạn chức năng hệ viền – gian não sẽ hiếm khi được chỉ định hoặc tỏ ra hữu ích. Tuy nhiên, việc  xét nghiệm kiểm tra là cần thiết để loại trừ những tình trạng thể chất có thể gây ra trầm cảm.Nhữngxét nghiệm bao gồm CBC, mức TSH, chất điện giải thường, vitamin B12, và folat. Đôi khi việc kiểm tra việc dùng ma túy là cần thiết.

Cách điều trị bệnh trầm cảm

Điều trị trầm cảm: Nâng đỡ-Tâm lý trị liệu-Thuốc

  • Những triệu chứng có thể thuyên chuyển tự phát, đặc biệt khinhững triệu chứng đo nhẹ hoặc là có thời gian ngắn. Trầm cảm nhẹ có thể được điều trị nhờ sự hỗ trợ chung cùng liệu pháp tâm lý. Trầm cảm từ vừa đến nặng được điều trị bằng thuốc hoặc liệu pháp tâm lý, hoặc cả hai và đôi khi là  trị liệu bằng liệu pháp shock điện. Một số bệnh nhân sẽ cần điều trị kết hợp của thuốc. Cải thiện có thể sẽ không rõ ràng cho đến sau khoảng 1-4 tuần điều trị bằng thuốc.
  • Trầm cảm, đặc biệt ở các  bệnh nhân đã có > 1 giai đoạn, có thể tái diễn; do đó, những  trường hợp nặng thường đòi hỏi một liệu pháp điều trị duy trì lâu dài.
    Hầu hết  người bị trầm cảm được điều trị như một bệnh nhân ngoại trú. Bệnh nhân có ý tưởng tự tử đáng kể và đặc biệt là khi thiếu hỗ trợ gia đình sẽ cần phải nhập viện, cũng như những người có những triệu chứng tâm thần hoặc khiếm khuyết thể chất.
  • Ở bệnh nhân rối loạn lạm dụng các chất gây nghiện, những  triệu chứng trầm cảm thường có thể giải quyết trong vòng khoảng  vài tháng ngừng sử dụng chất gây nghiện. Điều trị chống trầm cảm sẽ ít có hiệu quả hơn trong khi lạm dụng các chất gây nghiện vẫn tiếp tục.
  • Nếu một rối loạn cơ thể hay là thuốc có độc tính có thể là nguyên nhân, trước tiên cần phải điều trị trực tiếp những  rối loạn bên dưới. Tuy nhiên, nếu có nghi ngờ chẩn đoán hoặc nếu cscs triệu chứng không rõ ràng hay bao gồm ý tưởng tự sát và có cảm giác vô vọng, một thử nghiệm điều trị với một thuốc chống trầm cảm hay một thuốc chỉnh khí sắc sẽ có thể có ích.

Hỗ trợ ban đầu cho bệnh trầm cảm

  • Cho đến khi có bắt đầu cải tiến rõ ràng, bác sĩ có thể sẽ cần phải xem bệnh nhân hàng tuần hay hai tuần một lần để hỗ trợ và giáo dụccùng theo dõi sự tiến triển. Việc gọi điện có thể có hữu ích cho việc tái hẹn khám.
  • Bệnh nhân và người thân có thể sẽ lo lắng hoặc ngại ngần về việc có các rối loạn tâm thần. Bác sĩ có thể giúp giải thích về trầm cảm là một rối loạn y học nghiêm trọng gây ra do rối loạn sinh học và cần được điều trị đặc hiệu và có tiên lượng điều trị là tốt. Bệnh nhân và người thân sẽ cần được trấn an rằng không phải là sự phán ánh một tính cách xấu xa (ví dụ như yếu đuối, lười biếng). Và con đường phục hồi thường giao động, điều này sẽ giúp họ nhận ra vô vọng chỉ là quan điểm cá nhân và có thể góp phần giúp họ cải thiện sự tuân thủ điều trị.
  • Khuyến khích bệnh nhân tăng dần những hoạt động đơn giản (ví dụ như đi bộ và tập thể dục thường xuyên) và tương tác xã hội phải được cân bằng cùng sự thừa nhận mong muốn tránh những hoạt động. Bác sĩ có thể đề nghị bệnh nhân nên tránh tự đổ lỗi và giải thích rằng các tư tưởng đen tối là một phần của rối loạn và sẽ biến mất.

Tâm lý trị liệu

  • Nhiều thử nghiệm đối chứng thấy rằng liệu pháp tâm lý, đặc biệt là liệu pháp hành vi nhận thức cùng liệu pháp tương tác cá nhân, có hiệu quả ở các bệnh nhân rối loạn trầm cảm chủ yếu, cả về điều trị những triệu chứng cấp tính và  nhằm giảm khả năng tái phát. Bệnh nhân nhẹ sẽ có xu hướng có kết quả tốt hơn so với những bệnh nhân nặng hơn, nhưng phổ cải thiện sẽ cao hơn ở người bị trầm cảm nặng hơn.

Liệu pháp trị liệu bằng shock điện (ECT)

  • Các điều sau đây thường được điều trị bằng ECT nếu dùng thuốc không có hiệu quả: Trầm cảm với sự kích động hoặc chậm phát triển tâm thần, trong thai kỳ, nặng có tự sát, có hoang tưởng.
  • Bệnh nhân chống đối ăn thì có thể cần ECT để ngăn ngừa tử vong. ECT đặc biệt có hiệu quả đối với chứng trầm cảm loạn thần.
    Đáp ứng khoảng từ 6 đến 10 lần điều trị ECT thường tốt và có thể góp phần cải thiện cho bệnh nhân. Tái phát sau khi ECT là khá phổ biến, và liệu pháp sử dụng thuốc thường được duy trì sau khi ngừng ECT.

Liệu pháp ánh sáng

  • Được biết đến nhiều nhất cho chứng trầm cảm theo mùa nhưng dường như có hiệu quả tương đương với triệu chứng trầm cảm không theo mùa.
  • Điều trị có thể sẽ được thực hiện ở nhà với 2,500 đến 10,000 lux ở khoảng cách từ  30 đến 60 cm trong 30 đến 60 phút / ngày (lâu hơn với mức nguồn ánh sáng ít hơn).
  • Ở bệnh nhân đi ngủ muộn vào ban đêm, dậy muộn vào buổi sáng, thì liệu pháp ánh sáng có hiệu quả nhất vào buổi sáng, đôi khi sẽ được bổ sung với 5 đến 10 phút phơi nhiễm giữa 3 PM và 7 PM. Đối với những bệnh nhân ngủ và dậy sớm, thì trị liệu ánh sáng có hiệu quả nhất giữa 3 PM và 7 PM.

Những liệu pháp khác

Thuốc kích tâm thần (ví dụ,methylphenidat, dextroamphetamin, …) đôi khi được dùng, thường là cùng với thuốc chống trầm cảm; nhưng, chúng chưa được nghiên cứu trong những thử nghiệm lâm sàng có đối chứng.

Thảo dược được dùng  cho một số bệnh nhân. Cỏ St. John’s có thể có hiệu quả đối với bệnh trầm cảm nhẹ, mặc dù dữ liệu là khá mâu thuẫn. Thảo dược St.John’s có thể tương tác với những thuốc chống trầm cảm và những thuốc khác. Một số nghiên cứu đối chứng về dùng  bổ sung omega-3, được dùng làm tăng hiệu quả của thuốc chính hoặc đơn trị, thấy rằng acid eicosapentaenoic 1 đến 2 g một lần / ngày có tác dụng  khá hữu ích chống trầm cảm.

Kích thích thần kinh phế vị có liên quan đến việc kích thích dây thần kinh phế vị từng nhịp  qua một máy phát xung được cấy ghép. Nó có thể sẽ hữu ích cho trầm cảm kháng trị so với những phương pháp điều trị khác nhưng thường sẽ mất từ 3 đến 6 tháng để có hiệu quả.

Việc dùng  kích thích từ xuyên sọ lặp lại (rTMS) để điều trị cấp chứng rối loạn trầm cảm chủ yếu nhận sự hỗ trợ đáng kể từ những thử nghiệm đối chứng. rTMS tần số thấp có thể được áp dụng với vỏ não trước trán lưng bên bên phải (DLPC), và rTMS tần số cao có thể được áp dụng với DLPC bên trái. Tác dụng phụ thường gặp nhất như nhức đầu và khó chịu ở da đầu; cả hai có thể xảy ra thường xuyên hơn khi dùng tần số cao hơn tần số rTMS tần số thấp.

Kích thích não sâu hướng đến mục tiêu những  hồi đai gối dưới hoặc bao trong bụng trước/bụng thể vân đã có kết quả đầy hứa hẹn trong các chuỗi ca lâm sàng không đối chứng. Những thử nghiệm có đối chứng đang được thực hiện.

7 loại vitamin giúp chống lại bệnh trầm cảm

Thay đổi thói quen ăn uống và bổ sung những chất dinh dưỡng có thể ngăn ngừa và góp phần hỗ trợ điều trị một số bệnh nguy hiểm, bao gồm trầm cảm. Bạn có thể dùng  vitamin từ thực phẩm hoặc những loại thực phẩm chức năng và viên uống vitamin theo khuyến cáo bác sỹ.

Vitamin D chống trầm cảm

Nguồn vitamin D tự nhiên chủ yếu có ở  trong ánh sáng mặt trời. Vitamin D là một chất dinh dưỡng cần thiết hỗ trợ điều trị trầm cảm cùng một số bệnh khác. Vitamin D được biết là giúp tăng cường một số thụ thể trong não, do đó kích thích sản xuất hormone hạnh phúc serotonin. Khi nồng độ serotonin tối ưu ở trong não, những triệu chứng bệnh này giảm đáng kể. Ngoài ra, vitamin D được tìm thấy trong phô mai, thịt bò, lòng đỏ trứng, cam, cá, sữa đậu nành.

Vitamin B3

Hàm lượng serotonin thấp trong não là một nguyên nhân chính dẫn đến trầm cảm. Vitamin B3 có khả năng tăng cường sản xuất serotonin ở  trong não, từ  đó hỗ trợ điều trị bệnh này. Một số loại thực phẩm giàu vitamin B3 là: đậu phộng, Nấm, đậu xanh, gà tây, cá, thịt bò.

Vitamin B6

Bổ sung vitamin B6 nhằm góp phần giúp tăng cường chức năng của hệ thần kinh trong não và cân bằng những hormone não, giảm  triệu chứng của bệnh trầm cảm. Những loại  thực phẩm giàu vitamin B6 như: cá, bánh mì nguyên chất, Thịt lợn, thịt gà, đậu, trứng, rau…

Vitamin C

Vitamin C là một trong các chất dinh dưỡng đa năng nhất vì các lợi ích sức khỏe, bao gồm việc hỗ trợ điều trị bệnh này. Các nghiên cứu được đã chỉ ra rằng vitamin C có tác dụng cải thiện tâm trạng và giảm những triệu chứng trầm cảm nhất định. Khả năng trẻ hóa  tế bào của vitamin C giúp cải thiện trí nhớ và tăng sự tập trung. Một số nguồn thực phẩm tốt nhất cung cấp  vitamin C là: súp lơ, bông cải xanh, Cam, quả mọng, cà chua, ớt chuông, rau chân vịt, rau xanh.

Vitamin B12

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng sử dụng thực phẩm giàu vitamin B12 có thể giúp ổn định tâm trạng, góp phần cải thiện năng lượng tinh thần và làm giảm triệu chứng bệnh trầm cảm. Bởi, vitamin B12 có tác dụng giữ cho những chất dẫn truyền thần kinh trong não khỏe mạnh. Thực phẩm giàu vitamin B12 là: sò, cá, sữa, các sản phẩm từ sữa, thịt bò, Thịt, gan và thận của gia cầm.

Vitamin B9

Vitamin B9 (acid folic) có rất nhiều lợi ích sức khỏe. Acid folic có thể giúp cải thiện mức serotonin và dopamine trong não và giúp làm giảm những triệu chứng trầm cảm. Nguồn thực phẩm giàu vitamin B9 như  Đậu lăng,đậu Hà Lan, đậu, bơ, rau chân vịt, rau xanh, đậu bắp, trái cây.

Vitamin E

Nghiên cứu về vitamin E của Đại học Wollongong (Úc) thấy rằng sử dụng vitamin E thông qua chế độ ăn uống hay thực phẩm bổ sung, có thể giúp làm giảm các triệu chứng bệnh này và giữ những chất dẫn truyền thần kinh trong não khỏe mạnh. Vitamin E có trong những thực phẩm: quả phỉ, Đậu phộng, cá, dầu cá, rau xanh, hạnh nhân, hạt hướng dương, dầu dừa
Những bệnh nhân có các dấu hiệu trầm cảm nặng như: thay đổi tâm trạng liên tục, Khóc nhiều, có ý định và hành vi tự tử… cần được chăm sóc y tế kịp thời. Bổ sung những vitamin tự nhiên kết hợp dùng các loại thuốc và phương pháp điều trị theo sự chỉ định của bác sỹ, nhằm giúp điều trị bệnh này hiệu quả.

Một số câu hỏi liên quan đến bệnh trầm cảm

Trầm cảm uống thuốc gì?

Một số loại thuốc và các thuốc có thể được dùng  để điều trị trầm cảm:

  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs)
  • Ức chế tái hấp thu Serotonin-norepinephrin
  • Thuốc chống trầm cảm dị vòng
  • Hoạt chất Chất điều biến serotonin (5-HT2 blockers)
  • loại thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrin-dopamin
  • Hoạt Chất ức chế monoamin oxidase (MAOI)
  • Loại thuốc chống trầm cảm Melatonergic

Lựa chọn thuốc có thể được hướng dẫn sử dụng bởi phản ứng trước đây đối với một thuốc chống trầm cảm cụ thể. Nếu không, SSRIs thường là loại thuốc ban đầu được lựa chọn. Mặc dù các loại SSRI khác nhau có hiệu quả tương đương với những  trường hợp điển hình, một số tính chất của thuốc làm cho chúng ít nhiều thích hợp hơn  với một số bệnh nhân.

Trầm cảm có tự khỏi được không

Trầm cảm có thể sẽ tự suy giảm mà không cần điều trị nhưng bệnh này không thể tự khỏi. Đây là lý do vì sao điều trị kịp thời khi có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh này và việc điều trị duy trì liên tục để ngăn ngừa tái phát làmột  hành động tốt nhất có thể thực hiện.

Trầm cảm bao lâu mới khỏi? Uống thuốc bao lâu?

Tuy nhiên, thời gian chữa khỏi nhanh hay là chậm, hiệu quả cao hoặc thấp phụ thuộc rất nhiều vào sự quyết của người bệnh.

Cụ thể, việc dùng thuốc chống trầm cảm bao lâu, liều dùng ra sao do bác sĩ chỉ định. Thông thường, phải dùng trong cả 2 giai đoạn là điều trị tấn công (kéo dài trong  khoảng 6 – 12 tuần) và điều trị duy trì sau khi đã được kiểm soát triệu chứng, thuốc  giúp phòng ngừa tái phát bệnh.

Bệnh trầm cảm di truyền hay không?

Những nghiên cứu về gia đình và sinh đôi đã cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về sự đóng góp của các  yếu tố di truyền vào nguy cơ trầm cảm. Ví dụ về  một phân tích tổng hợp dữ liệu nghiên cứu song sinh cho thấyđược tỷ lệ di truyền đối với bệnh này là 37%, và dữ liệu từ những nghiên cứu gia đình cho thấy nguy cơ mắc bệnh này tăng  2-3 lần ở con cái, nếu có cha mẹ mắc bệnh này. Mức độ nghiêm trọng của bệnh này cũng tùy thuộc vào việc nó được di truyền từ bố hay mẹ.

Trong một nghiên cứu đã được công bố vào tháng 7 năm 2015 trên tạp chí Nature, những nhà khoa học cho biết đã tìm thấy hai dấu hiệu di truyền có liên quan rõ ràng tới  chứng trầm cảm nặng.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận được vai trò của gen trong việc hình thành khả năng thích nghi và phản ứng đáp trả trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài với từng cá nhân.

Trầm cảm bị đau đầu hay không?

Đau đầu do trầm cảm cũng được mô tả là một triệu chứng ở bệnh trầm cảm. Đau đầu có thể là một dấu hiệu cảnh báo

Trầm cảm có dẫn tới  yếu sinh lý hay không?

Theo nghiên cứu thấy rằng trầm cảm là một nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm ham muốn tình dục, đặc biệt là với nam giới. Khi bị trầm cảm, những  chất dẫn truyền thần kinh thiếu hụt, là một nguyên nhân khiến não bộ khó gửi tín hiệu đến những  cơ quan sinh dục, gây ra hiện tượng suy giảm ham muốn tình dục.

Trầm cảm sau sinh là gì? Trầm cảm sau sinh kéo dài bao lâu?

Trầm cảm sau sinh là loại một bệnh lý cảm xúc xảy ra sau khi sinh. Sau sinh thường kéo dài khoảng 6 tuần. Khởi phát bệnh sẽ có khuynh hướng từ từ hoặc có thể dai dẳng có khi lẫn vào những triệu chứng khác thời sinh đẻ, sau sinh có ảnh hưởng tới 15% phụ nữ có sinh đẻ.

Trầm cảm sau sinh có chữa khỏi không?

Trầm cảm sau sinh hoàn toàn có thể được  chữa khỏi và để điều trị bệnh, bác sĩ  sẽ cần dựa trên tình trạng sức khỏe và  mức độ mắc bệnh cùng  cơ địa của từng người để đưa ra một phác đồ điều trị thích hợp.

Bài viết trên Nhà thuốc AZ xin cung cấp toàn bộ các thông tin liên quan đến Trầm cảm. Mọi thông tin thắc mắc vui lòng liên hệ đến SDT 0929.620.660 để được tư vấn và hỗ trợ hoặc truy cập NhathuocAZ.com.vn để biết thêm chi tiết.