Bệnh viêm khớp dạng thấp: Dấu hiệu nhận biết và cách điều trị

Bệnh viêm khớp dạng thấp còn gọi là viêm đa khớp dạng thấp là một bệnh mạn tính gây nên do sự rối loạn miễn dịch trong cơ thể khi mà hệ thống miễn dịch tấn công nhầm vào những mô chính trong cơ thể.

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn ảnh hưởng chủ yếu tới khớp với những biểu hiện đau khớp, sưng, nóng…Bên cạnh đó bệnh còn có thể tác động đến những cơ quan khác của cơ thể như hệ tạo máu, phổi, tim mạch,…

Viêm khớp dạng thấp gặp ở mọi quốc gia chiểm khoảng 0.5-3% dân số. Tại Việt Nam tỷ lệ mắc viêm khớp dạng thấp trong dân số khoảng 0.5% đặc biệt mắc nhiều hơn ở nữ giới so với nam giới với tỷ lệ là 3:1. Thông thường bệnh viêm khớp dạng thấp khởi phát ở nữ giới khoảng 30-60 tuổi còn nam giới thì muộn hơn.

Bệnh viêm khớp dạng thấp diễn biến phức tạp có thể gây hậu quả nặng nề vì vậy cần được sớm phát hiện và điều trị kịp thời. Bài viết sau đây nhà thuốc AZ sẽ cung cấp thông tin cần thiết một cách  chi tiết hơn về căn bệnh viêm khớp dạng thấp.

Bệnh viêm khớp dạng thấp là gì?

Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn hệ thống mạn tính, chủ yếu gây ra tổn thương các khớp. Viêm khớp dạng thấp  gây ra các tổn thương do các metalloprotease, các cytokine, chemokine. Biểu hiện bệnh đặc trưng là sự viêm đối xứng các khớp ngoại vi (ví dụ như  khớp cổ tay, khớp bàn ngón tay), dẫn tới sự hủy hoại tiến triển của cấu trúc khớp, thường sẽ đi kèm với những triệu chứng toàn thân. Chẩn đoán dựa trên những  đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm cùng  triệu chứng hình ảnh. Điều trị bao gồm thuốc và các biện pháp thể chất có đôi khi phẫu thuật. Những thuốc chống thấp khớp sẽ giúp kiểm soát những triệu chứng và làm chậm tiến triển bệnh.

Bệnh viêm khớp dạng thấp ở trẻ em

Viêm khớp dạng thấp ở trẻ em hay còn được  gọi viêm khớp thiếu niên là tình trạng viêm mạn tính từ một tới nhiều khớp ở trẻ em dưới 16 tuổi và có kéo dài ít nhất hơn 6 tuần.
Đây là một căn bệnh khá hiếm gặp, nguyên nhân gây bệnh cũng chưa đượcxác định  rõ ràng. Tuy nhiên có thể đến từ một số yếu tố sau đây:

  • Yếu tố gen di truyền: Loại kháng nguyên HLA là kháng nguyên đặc hiệu dẫn tới bệnh viêm khớp dạng thấp ở trẻ em vì yếu tố từ bố mẹ, ông bà. Những gia đình có người bị mắc căn bệnh này hay mang gen có yếu tố HLA thì tỷ lệ  sinh ra con cái mắc viêm khớp thiếu niên là rất cao.
  • Nhiễm vi khuẩn và  vi rút: Trẻ em là nhóm đối tượng có sức đề kháng nên có thể bị nhiễm vi khuẩn và vi rút bất cứ lúc nào, đây cũng là một trong các nguyên nhân gây bệnh có thể gặp
  • Rối loạn hệ thống miễn dịch: Những tế bào miễn dịch trong cơ thể nhận định sai, chúng coi những tế bào lành, tế bào khỏe mạnh là các tác nhân gây hại nên tấn công. Đây gọi là một  bệnh tự miễn, chính tự cơ thể mình chống lại mình.
  • Ngoài ra còn có một số yếu tố như: thừa cân, Chấn thương, béo phì cũng góp phần khởi phát bệnh.

Tóm lại, tương tự  ở người lớn, viêm khớp ở trẻ không phải vì một nguyên nhân đơn thuần mà bởi một nhóm các yếu tố gây nên.

Nhận biết về bệnh viêm khớp dạng thấp ở trẻ em

Theo  chuyên gia,  các  dấu hiệu bệnh có thể gặp điển hình ở trẻ em như:

  • Toàn thân: Trẻ sẽ có biểu hiện sốt, xanh xao, mệt mỏi, chán ăn, gầy yếu.
  • Tại chỗ: Đây là căn bệnh gây viêm màng hoạt dịch khớp và ăn mòn sụn khớp, hủy xương dưới sụn. Thường gặp sưng đau nóng đỏ các khớp và có dấu hiệu cứng khớp buổi sáng. Bệnh nếu  không điều trị kịp thời có thể gây biến dạng hay  hạn chế vận động khớp dẫn tới tàn tật suốt đời.
  • Cận lâm sàng: Các xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán trẻ em bị viêm khớp dạng thấp như chỉ số bạch cầu tăng, máu lắng tăng, yếu tố dạng thấp RF dương tính và X quang có hình ảnh đặc hiệu.
  • Các thể lâm sàng thường gặp như : thể đa khớp, Thể ít khớp và thể hệ thống. Trong đó thì thể hệ thống sẽ nặng nhất, bệnh không chỉ ảnh hưởng tới khớp mà còn gây nguy hiểm cho tim, gan,…

Bệnh viêm khớp dạng thấp nguyên nhân đến từ đâu?

Đây là  căn bệnh xảy ra khi hệ thống miễn dịch thay vì việc bảo vệ lại quay sang tấn công màng hoạt dịch. màng hoạt dịch là một lớp màng bao quanh khớp. Kết quả xảy ra tình trạng viêm làm dày bao hoạt dịch, cuối cùng dẫn tới  phá hủy sụn và xương trong khớp. Các gân và dây chằng giữ khớp với nhau cũngsẽ  yếu đi và căng ra. Dần dần, khớp có thể  mất đi hình dạng ban đầu và sự liên kết.

Cho tới  nay, y khoa vẫn chưa tìm được lý do chính  vì sao hay nguyên nhân chính xác dẫn tới tình trạng viêm khớp dạng thấp, mặc dù có nhiều ý kiến rằng bệnh viêm khpws dạng thấp xảy ra do yếu tố di truyền. Tuy rằng gen của bạn không trực tiếp gây bệnh, nhưng yếu tố gen lại là nguyên nhân khiến bạn dễ bị ảnh hưởng bởi những  yếu tố môi trường – chẳng hạn như bị  nhiễm một số loại virus và vi khuẩn – một tác nhân gây bệnh RA.

Dù ở trẻ hay người lớn thì viêm khớp dạng thấp cũng không do một nguyên nhân đơn thuần mà bởi 1 nhóm yếu tố gây ra.

Nguyên nhân gây bệnh viêm khớp dạng thấp
Nguyên nhân gây bệnh viêm khớp dạng thấp

Sinh lý bệnh viêm khớp dạng thấp

Những bất thường miễn dịch nổi bật gồm các phức hợp miễn dịch tạo bởi những tế bào màng hoạt dịch và những mạch máu viêm. Các tương bào sản sinh kháng thể ( như yếu tố dạng thấp (RF) và kháng thể kháng citrullinated peptide (anti CCP)) tham gia vào sự hình thành các phức hợp này, tuy nhiên viêm khớp phá huỷ vẫn có thể sẽ xuất hiện khi không có mặt những kháng thể trên. Tại giai đoạn sớm, sẽ có sự xâm nhập của đại thực bào đến bao hoạt dịch và tăng số lượng tế bào lót bề mặt có nguồn gốc đại thực bào cùng tình trạng viêm mạch. Các tế bào lympho xâm nhập vào mô bao hoạt dịch chủ yếu là tế bào T CD4+ . Các đại thực bào cùng  tế bào lympho sản xuất ra những cytokine và những chemokine tiền viêm (ví dụ  TNF-alpha, các interleukin khác nhau, các yếu tố kích thích cụm đại thực bào hạt [GM-CSF], interferon-gamma) bên trong màng hoạt dịch. Các chất trung gian hóa học gây viêm hòa tan cùng các enzyme được giải phóng ra góp phần vào các biểu hiện lâm sàng toàn thân và tại khớp của viêm khớp dạng thấp, bao gồm phá hủy sụn và xương. Trong viêm khớp dạng thấp huyết thanh dương tính, các bằng chứng tích lũy cho thấy kháng thể anti CCP xuất hiện rất sớm trước khi có dấu hiệu viêm1). Ngoài ra, các kháng thể kháng protein carbamyl hóa (chống CarP) (2) dự đoán tiến triển về X quang nhiều hơn ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp anti CCP âm tính. Sự tiến triển của viêm khớp dạng thấp trong giai đoạn tiền lâm sàng phụ thuộc vào sự lan truyền của kháng thể kháng epitope.

Trong những khớp tổn thương mạn tính, màng hoạt dịch bình thường mỏng sẽ tăng sinh, dày lên, phát triển nhiều, hình thành dạng lông nhú. Các tế bào lót màng hoạt dịch tạo ra những chất khác nhau, gồm collagenase, stromelysin, góp phần làm phá huỷ sụn, IL-1 và TNF-alpha có thể kích thích huỷ sụn, hủy xương thông qua trung gian hủy cốt bào, viêm màng hoạt dịch, và  prostaglandin (có thể gây viêm). Cũng có sự lắng đọng fibrin, hoại tử và xơ hóa. Các mô màng hoạt dịch tăng sinh (pannus) giải phóng những chất trung gian gây viêm này, sẽ làm bào mòn sụn khớp, bao khớp và dây chằng, xương dưới sụn. Các bạch cầu đa hạt nhân (PMNs) trung bình thường chiếm khoảng 60% bạch cầu trong dịch khớp. Các hạt dạng thấp có tới khoảng 30% bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp. Đó là những u hạt gồm một vùng hoại tử trung tâm, bên ngoài là những đại thực bào, tất cả được bao phủ bởi những tế bào lympho, những tế bào plasma và nguyên bào sợi. Hạt dạng thấp cùng  viêm mạch cũng có thể có tại các tạng.

Triệu chứng lâm sàng  bệnh viêm khớp dạng thấp

Triệu chứng viêm khớp dạng thấp
Triệu chứng viêm khớp dạng thấp

Triệu chứng bệnh viêm khớp dạng thấp lâm sàng

  • Triệu chứng cơ năng
  • Đau và sưng khớp có tính chất đối xứng, lan tỏa đặc biệt là ở những khớp nhỏ và nhỡ. Thường đau sưng khớp  cả ngày, tăng lên về đêm và khi gần sáng, lúc nghỉ ngơi không đỡ đau.
  • Trạng thái cứng khớp buổi sáng: thường kéo dài khoảng trên 1 giờ
  • Mệt mỏi và suy nhược do viêm khớp kéo dài ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống. Bệnh nhân có thể  sốt hoặc không sốt  trong đợt tiến triển bệnh.
  • Triệu chứng ngoài khớp
    – Hạt thấp dưới da: tỉ lệ có thể gặp 10-15%, thường tại dưới da vùng tỳ đè như khuỷu, ngón chân, cạnh ngón tay, vùng chẩm, gân Achilles. Hay gặp với người viêm khớp dạng thấp nặng và tiến triển bệnh nhanh có thể huyết thanh dương tính. Tuy nhiên thường người bệnh viêm khớp dạng thấp tại Việt Nam ít có hạt thấp dưới da. Đặc điểm các hạt này có mật độ chắc và thường gắn dính với màng xương hay gân nên ít di động, kích thước từ khoảng vài mm đến 2 cm, đứng thành từng đám.
    – Tổn thương phổi: Nốt dạng thấp tại nhu mô, xơ phổi kẽ lan tỏa, viêm phế quản hoặc tắc nghẽn đường hô hấp bởi viêm khớp nhẫn giáp, viêm màng phổiviêm phổi (thể bệnh nặng) hoặc tràn dịch màng phổi cũng có thể gặp
    – Hội chứng Felty: Giảm bạch cầu hạt, nhiễm khuẩn tái phát, lách to, hội chứng Sjogren, thường là các biểu hiện toàn thân, đang tiến triển.
    – Tổn thương mắt: Thường sẽ viêm khô kết mạc, một phần trong hội chứng Sjogren. Có thể viêm củng mạc cùng nhuyễn củng mạc thủng khi bệnh tiến triển nặng
    – Tổn thương tim mạch: viêm cơ tim, loạn nhịp tim, Viêm màng tim, viêm van tim, nhiễm bột và viêm mạch.
    – Hiếm khi gặp tổn thương thần kinh ngoại biên và trung ương .
  • Triệu chứng thực thể tại khớp
    – Sưng,nóng  đau, tại các khớp và ít khi tấy đỏ. Sưng có thể do sưng phần mềm hoặc  là tràn dịch khớp. Thường viêm khớp nhỏ và  có tính chất đối xứng, kéo dài khoảng vài tuần đến vài tháng. Các khớp viêm hay gặp bao gồm cổ tay,khuỷu, vai, háng, gối,  bàn ngón tay, ngón gần, cổ chân, khớp nhỏ bàn chân. Nếu bệnh nhân có bị viêm cột sống cổ thường là dấu hiệu tiên lượng nặng của bệnhviêm khớp dạng thấp, có thể xuất hiện bán trật khớp đội trục làm chèn ép tủy cổ.
    – Nếu không được điều trị sớm và đầy đủ, nguời bệnh sẽ bị dính và biến dạng những khớp viêm do tổn thương phá hủy khớp, gân cùng dây chằng từ đó gây bán trật khớp rồi tàn phế. Các kiểu biến dạng thường gặp như: cổ tay hình lưng lạc đà, bàn tay gió thổi, ngón tay người thợ thùa khuyết,  hội chứng đường hầm cổ tay, ngón tay hình cổ cò,…

Triệu chứng cận lâm sàng viêm khớp dạng thấp

– Thiếu máu: Nếu bị viêm khớp dạng thấp kéo dài và  mãn tính. Cũng hay gặp tình trạng tăng tiểu cầu. Số lượng bạch cầu bình thường hoặc là  tăng nhẹ.
– Tăng tốc độ máu lắng và CRP: có giá trị nhằm đánh giá tình trạng viêm và sử dụng trong theo dõi đáp ứng điều trị, tuy nhiên đây là một xét nghiệm không đặc hiệu.
– Yếu tố dạng thấp (Rheumatoid Factor – RF); Là những globulin miễn dịch kháng lại đoạn Fc của phân tử Globulin IgE. khoảng 50-75% người bệnh viêm khớp dạng thấp  có RF dương tính thường là với những bệnh nhân có HLA-DR4 và ở thể bệnh nặng, tiến triển nhanh… Hiệu giá kháng thể RF cao được xem là một yếu tố tiên lượng nặng của bệnh viêm khớp dạng thấp.
– Kháng thể kháng CCP (là anti-cyclic citrulinated peptide antibodies – antiCCP): rất có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp vì  xét nghiệm có độ đặc hiệu cao (tới 98%). Có đến 93% người viêm khớp sớm chưa xác định rõ ràng được loại bệnh nếu có anti-CCP dương tính thì sẽ tiến triển thành viêm khớp dạng thấp  trong vòng 3 năm sau đó. Anti-CCP tăng cao cũng được xem như  là một yếu tố tiên lượng nặng của bệnh.
– Thăm dò chẩn đoán hình ảnh:
+ X-quang viêm khớp dạng thấp: Chụp Xquang khớp cổ tay thường quy nhằm đánh giá giai đoạn bệnh theo tiêu chuẩn  tác giả Steinbroker, trước đây thường hay được dùng nhưng, hiện ít dùng. Bao gồm có 4 giai đoạn :
Giai đoạn 1: chưa thấy được thay đổi trên X-quang.
Giai đoạn 2: đã có biến đổi một phần trên đầu xương và sụn khớp. Bắt đầu có hình bào mòn cùng hẹp khe khớp.
Giai đoạn 3: tổn thương nhiều tại đầu xương, sụn khớp và dính khớp một phần.
Giai đoạn 4: dính khớp hoàn toàn và có thể gây biến dạng khớp trầm trọng.
+ Siêu âm khớp: nhằm đánh giá tràn dịch khớp, bào mòn xương, viêm màng hoạt dịch, đánh giá tình trạng tưới máu bằng siêu âm Doppler vừa giúp chẩn đoán, vừa phục vụ mục đích theo dõi điều trị bệnh.
+ Chụp cộng hưởng từ (MRI) nhằm xác định sớm hơn tổn thương bào mòn khớp so với X-quang, góp phần giúp chẩn đoán sớm bệnh viêm khớp dạng thấp, đánh giá được vè tình trạng tràn dịch khớp và viêm màng hoạt dịnh, có thể sử dụng trong theo dõi tiến triển bênh, nhưng giá thành cao.

Bệnh viêm khớp dạng thấp có bao nhiêu giai đoạn?

Các giai đoạn của viêm khớp dạng thấp như sau:

Bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn 1

Tại giai đoạn này Viêm màng trên khớp dẫn tới sưng khớp và đau khớp. Các tế bào miễn dịch di chuyển tới vùng viêm dẫn đến số lượng tế bào tăng cao bên trong dịch khớp.

Bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn 2

Viêm khớp giai đoạn 2 ở mức độ vừa phải, trong giai đoạn 2 có sự gia tăng và làn truyền của viêm trong mô. Mô xương bắt đầu phát triển gây ảnh hưởng tới không gian khoang khớp và trên sụn, dần dần sẽ phá hủy sụn khớp và khớp bắt đầu thu hẹp do mất sụn.Trong giai đoạn 2 thường là không có dị dạng khớp,

Bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn 3

Viêm khớp dạng thấp giai đoạn 3 là một giai đoạn nặng. Sự mất đi sụn khớp trong những khớp bị tổn thương sẽ làm lộ xương dưới sụn. Bệnh nhân trong giai đoạn này thường đau khớp, sưng tấy và hạn chế chuyển động có sự cứng khớp vào buổi sáng, teo cơ, suy nhược cơ thể,  hình thành các nốt sẩn dị dạng.

Bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn 4

Bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn cuối có  quá trình viêm giảm đi và hình thành những mô xơ và xương chùng (xương kết hợp) dẫn tới việc ngừng chức năng khớp.

Bệnh viêm khớp dạng thấp chẩn đoán

Những tiêu chuẩn chẩn đoán đang được áp dụng hiện nay tại Việt Nam, trên thế giới

Hiện nay hầu hết những nước trên thế giới dựa vào tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ 1987 (American College of Rheumatology – ACR) để giúp  chẩn đoán. Tuy nhiên, hạn chế của tiêu chuẩn này là chưa chẩn đoán được bệnh ở giai đoạn sớm, vì vậy  Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ kết hợp cùng Liên đoàn chống Thấp khớp Châu Âu EULAR (European  League  Against Rhumatism) đã  áp dụng tiêu chuẩn ACR/EULAR 2010 trong lâm sàng.

  • Bệnh viêm khớp dạng thấp tiêu chuẩn chẩn đoán theo Tiêu chuẩn  Hội Thấp khớp học Mỹ ACR-1987: có 7 tiêu chuẩn chuẩn đoán viêm khớp dạng thấp:
    Thời gian cứng khớp vào buổi sáng kéo dài trên một giờ.
    2. Viêm ít nhất 3 trong 14 khớp sau: cổ tay, khuỷu,  ngón gần, bàn ngón tay, gối, bàn ngón chân (hai bên), cổ  chân, thời gian diễn biến ít nhất phải  6 tuần.
    3. Trong số những khớp viêm có ít nhất một khớp thuộc các vị trí sau: bàn ngón tay, ngón gần, cổ tay.
    4. Tính chất đối xứng.
    5. Hạt dưới da.
    6. Yếu  tố  dạng  thấp  huyết  thanh  (Kĩ thuật đạt độ đặc hiệu tới  95%) dương tính.
    7. X quang điển hình tại khối xương cổ tay (hình ảnh bào mòn và  mất chất khoáng đầu xương).
    Chẩn  đoán  xác  định  khi  có  ít  nhất  khoảng 4 trong số 7 yếu tố và  thời gian diễn biến của viêm khớp phải ít nhất 6 tuần
  • Bên cạnh đó viêm khớp dạng thấp có thể được chuẩn đoán theo (ACR/EULAR 2010 – American  College of  Rheumatology/ European League Against Rhumatism)Tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp học Hoa  Kỳ và Liên đoàn chống Thấp khớp Châu  Âu  2010  : Tiêu chuẩn này có thể được áp dụng khi người bệnh có biểu hiện viêm khớp tại giai đoạn sớm, trước 6 tuần. Tuy nhiên cần có sự theo dõi sát tình trạng tiến triển bệnh sau khi đã đưa ra những chẩn đoán dựa vào tiêu chuẩn này. Chẩn đoán viêm khớp dạng thấp chỉ  khi đạt ≥ 6/10 điểm

Chẩn đoán đợt tiến triển bệnh viêm khớp dạng thấp 

Hiện nay, tiêu chí của những phác đồ điều trị là nhắm đích, dự phòng tính trạng phá huỷ khớp tối đa nhằm giúp, bảo vệ chức năng khớp, giảm thiểu biến dạng khớp để nâng cao chất lượng cuộc sống tốt nhất cho người bệnh. Vì vậy mục tiêu điều trị là kiểm soát và tránh xuất hiện các đợt tiến triển của bệnh là khá quan trọng.

Dưới đây là những tiêu chí đánh giá đợt tiến triển của bệnh viêm khớp dạng thấp

– Thời gian cứng khớp vào  buổi sáng: thời gian càng dài thì mức độ hoạt động của bệnh viêm khớp dạng thấp càng nặng. Thời gian cứng khớp buổi sáng tại đợt tiến triển ít nhất là 45 phút.

– Đánh giá mức độ đau tùy theo thang điểm VAS (Visual analog scale): đánh giá cường độ đau theo cảm giác chủ quan  người bệnh. Sử dụng một thước nhằm đánh giá, một mặt của thước  biểu diễn hình ảnh các mức độ đau cho người bệnh chọn, mặt sau của thước chia thành khoảng 10 vạch và mỗi vạch cách nhau 10mm. Dựa theo  lựa chọn của người bệnh ở mặt trước thước từ đó xác định điểm đau tương ứng ở mặt sau thước.

Đánh giá kết quả: Từ 10 tới  40mm: đau nhẹ; Từ 50 tới 60 mm: đau vừa; Từ 70 tới 100mm: đau nặng.

– Số khớp sưng và số khớp đau: càng nhiều khớp sưng đau càn chứng tỏ  mức độ hoạt động của bệnh càng nặng. Trong đợt tiến triển của bệnh viêm khớp dạng thấp có ít nhất 3 khớp sưng

– Chỉ số Ritchie: được đánh giá qua ấn đầu ngón tay cái lên trên diện khớp với một  áp lực vừa phải, tổng cộng có khoảng 26 vị trí bao gồm: khớp cổ tay, khớp bàn ngón tay, Khớp vai, khớp khuỷu, khớp ngón gần, khớp háng, khớp sên gót, khớp bàn cổ chân (khớp sên – hộp), khớp gối, khớp cổ chân, khớp bàn ngón chân lấy cả hai bên sẽ  có 22 vị trí. Khớp thái dương hàm, khớp mỏm cùng vai (cả hai bên đều tính là một vị trí), khớp ức đòn, cột sống cổ.

Mỗi vị trí khớp được tính điểm như sau: 3 điểm: Đau nhiều, bệnh nhân rút tay lại khi ấn.2 điểm: Đau vừa, người bệnh đau và nhăn mặt;  1 điểm: Đau ít; 0 điểm: Không đau;

Đánh giá kết quả: 0 điểm là bệnh nhân  hoàn toàn không đau và đau tối đa là 78 điểm. Được đánh giá đợt tiến triển của bệnh viêm khớp dạng thấp khi điểm Ritchie trên 9 điểm.

– Thang điểm để  đánh giá mức độ hoạt động của bệnh DAS 28 (Disease activity score 28): do  Prevoo đề xuất năm 1995, được đánh giá dựa vào 28 khớp. Nhiều nghiên cứu thấy rằng DAS 28 có giá trị dự báo mức độ tàn tật cùng tổn thương X quang tốt hơn so với những chỉ số đánh giá DAS khác trước đó. Sử dụng DAS 28 để đánh giá mức độ hoạt động bệnh vừađơn giản, dễ thực hiện.

Chẩn đoán phân biệt

– Bệnh Gút: Thường là được phân biệt với tình trạng gút mãn tính. Người bệnh có các biểu hiện sưng nóng đỏ đau tại những khớp nhỏ và nhỡ ở gối, bàn chân, cổ chân, bàn tay cũng đối xứng hai bên. Tuy nhiên cần phải hỏi kĩ tiền sử và tính chất sưng đau khớp. Người mắc bệnh gút mãn tính thường sẽ có biểu hiện các biến chứng của bệnh gút như: hạt tophi (ở tai, bàn ngón chân, khuỷu tay, bàn ngón tay…), sỏi thận… Tìm thấy tinh thể urat bên trong dịch khớp hoặc hạt tophi. Người bệnh cũng có thể có tính trạng rối loạn chuyển hóa kết hợp. Chẩn đoán bệnh gút có thể dựa theo tiêu chuẩn Bennett-Wood 1968.

– Thoái hóa nhiều khớp như khớp nhỏ ở tay,  khớp gối, cùng lúc. Thường người bệnh đau nhiều ở những khớp ngón xa. Đặc điểm đau khớp sẽ có tính chất cơ học ít kèm sưng – nóng, thời gian cứng khớp  vào buổi sáng dưới 30 phút. Có thể có những  hạt Heberden ở khớp ngón xa hoặc Bouchat tại khớp ngón gần nhưng hiếm gặp. Xét nghiệm không thấy được tình trạng viêm sinh học (máu lắng cùng  CRP thường không tăng cao), xét nghiệm RF thường là  cho kết quả âm tính.

– Thấp khớp cấp: bệnh thường gặp với người trẻ tuổi, trước 25 tuổi. Thường viêm những khớp nhỡ, cấp tính và  di chuyển. Người bệnh có tiền sử sốt hay đau họng trước khi xuất hiện viêm khớp. Xét nghiệm ASLO thường là dương tính, có tình trạng viêm sinh học và triệu chứng tim mạch thường đi kèm gồm  tràn dịch màng tim, nhịp tim nhanh, biến đổi trên điện tim… Chẩn đoán bệnh dựa  theo tiêu chuẩn Jones 1992 cải tiến.

– Lupút ban đỏ hệ thống có sự tổn thương khớp: thường gặp với người nữ, trẻ tuổi. Thường có đau những khớp ở bàn tay, kèm đau cơ. Chụp X-quang không tìm thấy được hình ảnh bào mòn xương. Có thể tìm thêm những triệu chứng khác của bệnh lupút như ban dạng đĩa, ban cánh bướm ở mặt,  da nhạy cảm với ánh nắng, sốt kéo dài, rụng tóc, tổn thương thận hay gan, thần kình… Chẩn đoán bệnh này sẽ dựa vào tiêu chuẩn ACR 1982 (được bổ xung và điều chỉnh năm 1997).

– Xơ cứng bì toàn thể: cũng thường hay gặp ở nữ, trung niên. Người bệnh có thể viêm những khớp ở bàn tay và có biểu hiện của hội chứng Raynaud. Tuy nhiên khám kĩ sẽ phát hiện ra  được tổn thương da đặc trưng như  da dày và cứng, hay  có tình trạng rối loạn sắc tố… Chẩn đoán bệnh này dựa theo  tiêu chuẩn của ACR 1980 với độ nhạy 97% và có độ đặc hiệu đạt 98%.

Cách điều trị viêm khớp dạng thấp

Điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp có thể thực hiên như:

Các biện pháp hỗ trợ (ví dụ như dinh dưỡng, nghỉ ngơingừng hút thuốc, , các biện pháp thể chất, thuốc giảm đau)
Thuốc góp phần làm thay đổi tiến triển của bệnh (thuốc chống thấp khớp)
NSAIDs trong trường hợp cần thiết để giảm đau
Điều trị RA  gồm sự cân bằng về nghỉ ngơi cùng tập thể dục, với dinh dưỡng đầy đủ, những biện pháp thể chất, thuốc và đôi khi phẫu thuật.

Các biện pháp vật lý với bệnh viêm khớp dạng thấp

Nẹp khớp giúp làm giảm viêm tại chỗ và làm giảm các triệu chứng đau hoặc những bệnh thần kinh chèn ép. Có thể chườm lạnh để làm giảm đau và sưng khớp. Giày chỉnh hình hoặclà  giày thể thao có gót tốt và hỗ trợ vòm gan chân thường sẽ  rất hữu ích; dụng cụ hỗ trợ xương bàn chân có thể được đặt phía dưới (gần) chỗ khớp bàn ngón chân đau để làm giảm đau vì chịu trọng lực. Có thể cần giày đúc cho những biến dạng trầm trọng. Các hoạt động trị liệu và những thiết bị tự trợ giúp cho nhiều bệnh nhân viêm khớp dạng thấp  suy nhược để thực hiện những hoạt động sinh hoạt hàng ngày.
Nên tập thể dục khi bệnh nhân dung nạp được. Trong giai đoạn viêm cấp tính thì tập vận động thụ động giúp ngăn co cứng tại  tư thế gấp. Liệu pháp nhiệt có thể được áp dụng nhằm giảm bớt sự cứng khớp. Các bài tập tập thể dục có thể được thực hiện trong nước ấm rất hữu ích vì nhiệt lgiúp àm tăng chức năng của cơ bằng cách giảm độ cứng, co thắt cơ. Tuy nhiên, co cứng có thể được dự phòng và sức mạnh cơ có thể được phục hồi thành công hơn sau thời điểm bắt đầu giảm viêm; tập thể dục chủ động (bao gồm tập thể dục đặc biệt cho các khớp tổn thương và đi bộ) để khôi phục lại khối lượng cơ và giúp  bảo vệ tầm vận động khớp nhưng không nên quá sức gây mệt. Co rút ở tư thế gấp có thể sẽ  đòi hỏi phải tập tích cực, bột hay cố định (ví dụ, nẹp)ở những  tư thế duỗi dần dần. Tắm parafin có thể  giúp làm ấm các ngón tay,  tạo thuận lợi cho việc tập bài tập ngón tay.
Massage bởi những kỹ thuật viên được đào tạo, kéo, điều trị nhiệt độ sâu với nhiệt điện hay siêu âm có thể là một phương pháp trị liệu hữu ích hỗ trợ cho những thuốc chống viêm.

Phẫu thuật viêm khớp dạng thấp

Có thể xem xét việc  phẫu thuật nếu điều trị bằng các thuốc không thành công. Phẫu thuật cần cân nhắc đến toàn thể bệnh cùng mong muốn của bệnh nhân. Ví dụ, biến dạng tay, cánh tay làm hạn chế dùng  nạng trong thời gian phục hồi chức năng và tổn thương nặng khớp gối,  bàn chân sẽ hạn chế lợi ích từ việc phẫu thuật khớp háng. Cần xác định những  mục tiêu hợp lý cho từng bệnh nhân, cần xem xét chức năng; việc làm thẳng những ngón tay lệch trụ có thể không cải thiện chức năng bàn tay. Phẫu thuật có thể  thực hiện khi bệnh đang hoạt động.
Phẫu thuật nội soi và thay khớp giả được chỉ định trong trường tổn thương nghiêm trọng đến chức năng; thành công nhất là việc thay khớp gối và khớp háng toàn bộ. Khớp háng và khớp gối giả không chịu được những hoạt động mạnh (như thể thao đối kháng). Việc cắt bỏ những  khớp bàn ngón chân bị lỏng lẻo bán trật có thể giúp hỗ trợ đi bộ nhiều. Cố định ngón cái có thể góp phần  giúp làm vững động tác vắt. Có thể cố định C1-2 mất vững nếu có đau nhiều hay có  nguy cơ chèn ép tủy. Phẫu thuật cắt màng hoạt dịch thông qua nội soi hoặc mổ mở có thể giúp làm giảm viêm khớp nhưng chỉ là tạm thời trừ khi kiểm soát mức độ hoạt động của bệnh.

Bệnh viêm khớp dạng thấp điều trị bằng thuốc gì?

Những  thuốc chống thấp tác dụng chậm (Disease Modifying Anti-Rheumatism Drugs (DMARDs)):
Những thuốc DMARDs kinh điển gồm Methotrexat (MTX), Sulfasalazine (Salazopyrine), thuốc chống sốt rét tổng hợp (Hydroxychloroquine), Leflunomid, Cyclosporin A… trong đó có Methotrexat đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định bệnhviêm khớp dạng thấp . Liều tối thiểu của tác dụng MTX là 7,5mg/ tuần và có  liều tối đa là 20-25mg/ tuần, uống trong một ngày cố định trong tuần. MTX được chỉ định đầu tay trong điều trị viêm khớp dạng thấp. Khi dùng  MTX chú ý bổ xung acid folic đủ và cách thời gian sử dụng  MTX tối thiểu 24h nhằm  tránh giảm tác dụng của thuốc. Tuy nhiên, nhiều trường hợp vẫn không thể  kiểm soát được bệnh đặc biệt ở những bệnh nhân có yếu tố tiên lượng nặng.

Những  thuốc DMARDs sinh học (là Biological  Therapy;  Biotherapy): được đưa vào chỉ định trong việc  điều trị viêm khớp dạng thấp  do đạt được hiệu quả cùng tính an toàn. Trên cơ sở sự hiểu biết về cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm khớp dạng thấp, về chức năng của mỗi tế bào và mỗi cytokine mà hiện nay những thuốc điều trị sinh học đã tạo ra một cuộc cách mạng trong việc điều trị bệnh viêm khớp  dạng thấp nhờ vào hiệu quả cao, có tác dụng nhanh, và dung nạp tốt. Từ năm 2009, một số ;loại  thuốc thuộc nhóm này  đã  được  dùng   tại Việt Nam. Ngoài việc cải thiện triệu chứng tại khớp và  giúp triệu chứng ngoài khớp trên lâm sàng, thuốc còn giúp  hạn chế tổn thương trên X quang góp phần làm chậm sự hủy khớp từ đó giúp bảo tồn chức năng khớp. Thuộc nhóm này có những  thuốc ức chế Interleukin 6 như Tocilizumab (Actemra®), thuốc ức chế tế bào B (Rituximab: MabThera®, Rituxan ®), thuốc ức chế TNFα (, Adalimumab – Humira, Infliximab – Remicade), thuốc ức chế JAK (tofacitinib)…

Tuy nhiên những  tác dụng không mong muốn đáng ngại nhất của những  thuốc này là lao và những nhiễm khuẩn cơ hội, nhiễm virus (đặc biệt là virus viêm gan B, C), lao, ung thư. Vì vậy, trước khi chỉ định thuốc sinh học thì bắt buộc phải khảo sát, sàng lọc những nhiễm trùng, tình trạng tiêm chủng (Không nên sử dụng  vắc xin sống và bất hoạt đồng thời với những thuốc sinh học), phản ứng quá mẫn cùng bệnh gan tiến triển và suy gan. Điều trị với thuốc sinh học thường sẽ kết hợp với hợp với Methotrexate. Việc quản lý cùng  theo dõi chặt chẽ trước – trong và sau sử dụng  thuốc ra khá quan trọng và  rất cần thiết để đảm bảo cả về hiệu quả điều trị cùng sự an toàn cho người bệnh.

Chữa viêm khớp dạng thấp băng thuốc nam

Có nhiều bài thuốc dân gian góp phần vào việc chữa bệnh viêm khớp, có thể tham khảo một số Bài thuốc chữa viêm khớp dạng thấp như sau:

  • Ngâm chân bằng với  muối ấm pha gừng
    Chuẩn bị: 2 lít nước, 1 củ gừng tươi, 20 gram muối hạt.
    Tiến hành như sau: Đun nước ấm đến nhiệt độ khoảng từ 50 – 60 ̊C (hoặc  điều chỉnh tùy thuộc vào khả năng của người dùng). Gừng  thìđập dập rồi  bỏ vào nước đã đun cùng muối hạt.
    Mỗi ngày, ngâm từ 15-30 phút tốt nhất ngâm chân một lần tại thời gian thuận lợi,. Nước muối ấm và gừng có thể làm dịu cơn đau, phòng chứngbệnh đau khớp cổ chân.
  • Bài thuốc dân gian từ  đu đủ + mễ nhân
    Nguyên liệu: 1 nửa quả đu đủ xanh, 30g mễ nhân sống và 2 bát nước
    Tiến hành: Gọt vỏ đu đủ, đem rửa sạch,sau đó thái miếng nhỏ rồi cho vào nồi. Đổ thêm nước cùng mễ nhân vào nồi, vặn nhỏ lửa nấu tới khi thấy mễ nhân chín mềm thì bỏ thêm một ít đường trắng và sử dụng khi còn ấm. Dùng một thời gian dài có thể góp phần đẩy lùi chứng đau nhức xương khớp.
  • Bài thuốc dân gian  từ lá lốt
    Chuẩn bị: 5-10g lá lốt phơi khô (15-30g lá tươi) và 2 bát nước
    Tiến hành: Dùng lá lốt đã chuẩn bị đem sắc sắc 2 bát nước còn ½ bát, dùng trong ngày. Uống khi nước còn ấm, sau bữa ăn tối. Mỗi liệu trình dùng trong 10 ngày sẽ góp phần giảm  triệu chứng sưng đau một cách rõ rệt.
    Ngoài ra có thể sử dụng lá lốt như sau: dùng lá lốt và rễ các cây bưởi bung, vòi voi và cỏ xước, mỗi vị 30g, tất cả đều sử dụng tươi thái mỏng, sao vàng rồi  sắc với 600ml nước, tới khi còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong khoảng 7 ngày sẽ thấy hiệu quả.
  • Bài thuốc dân gian từ quả cà tím
    Nguyên liệu: 1 quả Cà tím cỡ vừa và 1 lít nước lọc
    Tiến hành: Trước tiên cần phải lấy cà tím cắt bỏ núm sau đó đi rửa sạch rồi thái thành những khúc mỏng. Cho nước lọc vào nồi đun sô rồi tắt bếp. Bây giờ, bạn cho toàn bộ cà tím vào trong nồi nước vừa mới đun sôi, dùng nắp đậy kín lại. Tiến hành ngâm cà tím  trong nồi nước sôi cho tới khi thấy nước nguội hoàn toàn. Cuối cùng dùng rây lọc bỏ phần xác và giữ lấy phần nước cà tím.
    Cho nước cà tím thu được vào một chai thủy tinh rồi bảo quản trong tủ lạnh. Phần nước cà tím này chia ra làm 4 phần, uống vào các bữa sáng, trưa, tối trước khi ăn cơm. Phần nước cà tím còn lại bạn có thể trộn với 50ml dầu ô liu nguyên chất và khuấy đều lên. Sau đó, bảo quản trong tủ lạnh và dùng vào buổi tối trước khi đi ngủ. Chỉ cần thoa khoảng một lớp mỏng lên chỗ đau khớp và sử dụng băng gạc quấn lại để giữ ấm là được.
  • Bài thuốc dân gian từ ngải cứu và rượu trắng
    Nguyên liệu: 100g lá ngải cứu và 2 chén rượu trắng
    Tiến hành: Lấy lá ngải cứu trắng đem rửa sạch, để ráo nước. Cho ngải cứu với rượu trắng vào chảo và xào nóng lên. Rồi  đắp hỗn hợp lên vùng bị sưng rồi buộc lại bằng vải cho đến khi hết hơi ấm thì tháo ra.

Một số thắc mắc về bệnh viêm khớp dạng thấp

Bệnh viêm khớp dạng thấp có di truyền không?

Bệnh viêm khớp dạng thấp không thuộc nhóm bệnh có tính di truyền.

Tại sao viêm khớp dạng thấp gây thiếu máu?

Khỏng 30-70% bệnh nhân viêm khớp dạng thấp gặp tình trạng thiếu máu do khi mắc viêm khớp dạng thấp, những phản ứng miễn dịch gây viêm tại mô và khớp làm giảm sản xuất tế bào hồng cầu tại tủy xương dẫn tới việc hấp thu và sử dụng sắt của cơ thể kém đi. Bên cạnh đó viêm có thể ảnh hưởng tới cách cơ thể sản xuất erythropoietin (đây là một loại hoormone nhằm kiểm soát sử sản xuất hồng cầu) dẫn tới thiếu máu.

Bênh viêm khớp dạng thấp gây loãng xương đúng không?

Một trong các biến chứng của bệnh viêm khớp dạng thấp là loãng xương do bản thân căn bệnh này cùng một só thuốc được dùng để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp có thể làm tăng nguy cơ dẫn tới loãng xương.

Người bị bệnh viêm khớp dạng thấp có nên tập thể dục hay không?

Người bệnh viêm khớp dạng thấp nên tập thể dục. Một số nghiên cứu cho thấy tập thể dục có thể giúp bạn giảm các triệu chứng bệnh viêm khớp dạng thấp (ra) và cải thiện chức năng vận động của khớp.

Người bệnh viêm khớp dạng thấp uống sữa được không?

Người bệnh viêm khớp nếu có sử dụng corticoide thì cần bổ sung vitamin D và canxi nhằm củng cố xương. Trương hợp này có thể uông sữa và các sản phẩm từ sữa để bổ sung canxi.

Người bệnh viêm khớp dạng thấp có ăn được thịt gà không?

Người bệnh đau khớp, viêm khớp dạng thấp không nên ăn thịt gà, do thịt gà có chứa lượng lớn kẽm có khả năng phá vỡ cấu trúc sụn, có thể làm tăng cảm giác đau nhức, hoặc viêm nhiễm vùng khớp bị đau….

Bệnh viêm khớp dạng thấp ăn chuối có sao không?

Chuối giàu khoảng chất magie, kali góp phần tăng mật độ xương, giúp cải thiện phần nào chứng đau nhức của viêm khớp. Chuối chứa nhiều vitamin và khoáng chất giúp giảm đau, viêm có lợi cho người viêm khớp dạng thấp, thoái hóa khớp.

Bệnh viêm khớp dạng thấp có nguy hiểm không?

Bệnh viêm khớp dạng thấp là một căn bệnh với nhiều biến chứng nguy hiểm. Khi khới phát viêm khớp dạng thấp không chỉ gây đau nhức và tổn thương những khớp xương trên cơ thể mà còn gây ra ảnh hưởng xấu tới các cơ quan khác như mắt, phổi, mạch máu và tim,… Đặc biết nếu bệnh viêm khớp dạng thấp không được điều trị kịp thời có thể làm hỏng khớp và tăng nguy cơ dẫn tới tàn phế.

Bệnh viêm khớp dạng thấp có chữa khỏi không?

Do đây là một căn bệnh khớp mạn tính đồng thời  một bệnh lý tự miễn điển hình với những biểu hiện tại khớp, ngoài khớp và cả toàn thân ở nhiều mức độ khác nhau, bệnh viêm khớp dạng thấp có diễn biến phức tạp nên  không thể chữa khỏi hoàn toàn. Nhưng nếu được phát hiện và điều trị kịp thời thì có thể hạn chế được sự tiến triển của bệnh, không dẫn tới tàn phế….

Tiên lượng sống của người bệnh viêm khớp dạng thấp như thế nào?

Viêm khớp dạng thấp  làm giảm tuổi thọ trung bình từ 3 -7 năm, phần lớn do bệnh tim, nhiễm trùng, xuất huyết tiêu hóa; thuốc điều trị, ung thư, cũng như những bệnh tiềm ẩn. Nên kiểm soát mức độ hoạt động  của bệnh để làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch ở tất cả những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp.
Ít nhất khoảng 10% bệnh nhânsau sẽ bị tàn tật nghiêm trọng mặc dù đã được điều trị đầy đủ. Người da trắng  cùng phụ nữ có tiên lượng kém hơn, cũng như những bệnh nhân có hạt dạng thấp và  tuổi cao khi khởi phát bệnh, viêm ≥ 20 khớp, có bào mòn sớm, máu lắng cao, hút thuốc, RF và anti CCP cao.

 Tác giả: Hoàng Hạnh